tailieunhanh - Đề tài độc lập cấp nhà nước : Ứng dụng kỹ thuật tiên tiến ghép tạng ở Việt Nam part 2

Tham khảo tài liệu 'đề tài độc lập cấp nhà nước : ứng dụng kỹ thuật tiên tiến ghép tạng ở việt nam part 2', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | DeỉaiGheptang II - TỔNG QUAN VỂ GHÉP TẠNG . Lịch sử phát triển ghép tạng trên thế giới. . Những nét chung Lịch sử của ghép đã có từ đời cổ xưa. Từ 700 năm trước công nguyên người ta đã biết ghép da để điều trị những khuyết hổng ở mũi nhưng ghép tạng chỉ là truyền thuyết ghi lại trong các câu truyện cổ xưa của các nền văn hoá phương Đông và phương Tây. Lịch sử của ghép nói chung bắt đầu từ ghép các mô và tổ chức được thực hiện ở đầu thế kỷ XVIII. Người đi đầu trong nghiên cứu phẫu thuật thực nghiệm ghép mô và tổ chức là nhà phẫu thuật Scotland John Hunter 1728-1793 . Một số những mẫu vật nghiên cứu của ông vẫn còn được lưu trữ ở viện bảo tàng Hunterian ở London. Ghép da và ghép giác mạc là những thành tựu đầu tiên của lĩnh vực ghép được thực hiện trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Tiếp theo những thành công của ghép mô và tổ chức là ghép tạng. Ghép tạng khác với ghép mô và tổ chức là các tạng có các mạch máu vì vây ghép tạng chỉ có thể bắt đầu được thực hiện vào giữa thế kỷ XIX khi mà những điều kiện cần thiết nhất của phẫu thuật ra đời. Cơ sở của ghép tạng về mặt kỹ thuật lúc bấy giờ là sự phát minh ra Ether và ứng dụng của nó trong gây mê nguyên tắc khử trùng của Lister và đặc biệt là kỹ thuật khâu nối mạch máu của Carrel. Lịch sử của ghép tạng bắt đầu từ ghép thận. Ghép thận trong khoảng thời gian từ 1902-1906 được thực hiện bởi Ullmann và Jaboulay là ghép từ động vật sang người. Các quả thận sau ghép đều bị loại thải nhanh chóng. Sau nhiều phẫu thuật thực nghiệm của Alexis Carrel từ 1904-1906 thì khả năng ghép thận thành công được mở ra. Ông đã thành công trong ghép thực nghiêm thận và các cơ quan khác và sử dụng mô hình này để phát triển kỹ thuật khâu nối mạch máu hiện đại. Công trình xuất sắc này đã nhận được giải thưởng Nobel năn 1912. Tuy vậy phải trải qua 40 năm thử nghiêm lâm sàng mãi đến những năm của thập niên 50 Medawar đã mô tả chi tiết hiện tượng thải ghép. Cùng với Medawar Billingham và Brent đã chứng minh sự thải ghép có thể dự phòng .