tailieunhanh - Giáo trình Vi sinh vật học công nghiệp part 10

Nếu vàng phân tán tinh vi bên trong các loại quặng mẹ sunfua như trong pirit, acxenopirit, pirotit, galen (quặng chì sunfua), và sphalerit thì nhiều trong số các phương pháp tuyển vàng kể trên sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế mong muốn. Chất ngâm chiết không xâm nhập được vào bên trong khối quặng rắn để tiếp xúc với các hạt vàng có kích thước nhỏ hơn một μm. | 226 chiết tiosunfat và tioure tạo hỗn hợp amalgamation tuyển nổi tuyển bằng trọng lực và nấu chảy hoặc bằng tổ hợp các quy trình trên. Nếu vàng phân tán tinh vi bên trong các loại quặng mẹ sunfua như trong pirit acxenopirit pirotit galen quặng chì sunfua và sphalerit thì nhiều trong số các phương pháp tuyển vàng kể trên sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế mong muốn. Chất ngâm chiết không xâm nhập được vào bên trong khối quặng rắn để tiếp xúc với các hạt vàng có kích thước nhỏ hơn một Lim. Muốn giải phóng được vàng thì các loại quặng chứa sunfua này thường phải được tiền oxy hóa. Tuy nhiên nung là một quy trình tốn năng lượng và liên quan đến các vấn đề về môi trường như phát sinh acxenic bay hơi chì lưu huỳnh và các chất độc khác. Một biện pháp có thể thay thế tiền oxy hóa là áp dụng các phản ứng sinh học để giải phóng các hạt vàng từ quặng. Ngay từ những năm 1960 người ta đã phát hiện được các vi khuẩn dị dưỡng có khả năng hòa tan vàng từ các khoáng vật laterit. Trong các nghiên cứu này hàm lượng vàng cực đại không vượt quá 1 5mg dm3. Tuy nhiên sau 283 ngày ngâm chiết đã tách được tới 82 vàng chứa trong quặng. Một số loài nấm đã được chứng minh không những có thể chiết vàng từ quặng mà còn có thể loại vàng hòa tan khỏi dung dịch ngâm chiết nhờ hấp phụ sinh học lên bề mặt cơ thể. Những tế bào nấm này sau đó sẽ được lọc làm khô và nung. Người ta đã phân lập được hàng loạt chủng nấm hoạt động có thể loại tới 98 vàng từ dung dịch ngâm chiết sau 1520 giờ tiếp xúc. Tan vàng từ quặng pirit nhờ hoạt động của vi sinh vật Các thí nghiệm ngâm chiết đã được tiến hành với pirit chứa vàng 150g vàng tấn quặng trong các bình nón chứa 5g pirit và 200cm3 môi trường dinh dưỡng chứa 200mg NH4 2SO4 50mg KCl 50mg K2HPO4 500mg MgSO4 và 10mg Ca NO3 2 trong một lít nước cất và được ủ với 10 cm3 một chủng Thiobacillus ferrooxidans thuần khiết. Kết quả chỉ ra trong bảng Thí nghiệm số 1 được tiến hành mà không cấy vi khuẩn vào dung dịch ngâm chiết mẫu đối chứng vô trùng . Các số

TỪ KHÓA LIÊN QUAN