tailieunhanh - Các tên gọi của Đao

Ðao thuộc về loại Binh Khí Sắc Bén, có lưỡi bản rộng hơi cong và gồm có Ðơn Ðao (單 刀) và Song Ðao (双 刀). A – Song Ðao, thì được chia ra hai loại: Song Ðao (双 刀 và Song Đoản Ðao (双 短 刀). | Các tên gọi của Đao Đao thuộc về loại Binh Khí Sắc Bén có lưỡi bản rộng hơi cong và gồm có Đơn Đao M X và Song Đao . A - Song Đao thì được chia ra hai loại Song Đao và Song Đoản Đao . B - Đơn Đao được chia ra nhiều loại Trường Đao M Đoản Đao fe Yêu Đao M 1 Trường Đao M gồm có hai loại a - Khi Lưỡi Đao được tra cán dài vào thì được người Việt gọi là Giáo Đao hoặc Phác Đao đó là một loại binh khí rất thông dụng trong Bộ binh Đại Việt thủơ xưa mà ngày nay chúng ta vẫn còn thường thấy minh họa trên những tranh ảnh và những tấm sơn mài. Naginata của Nhật Bản là một loại Phác Đao gắn lưỡi bản hẹp. b - Khi lưỡi Đao được tra cán ngắn bằng tầm lưỡi Đao để Kỵ binh sử dụng thì được gọi đó là Đoản Bính Trường Đao fe ffi M dưới thời Nhà Minh 1368 - 1644 họ gọi là Hổ Đầu Đao . 2 Đoản Đao fe thì đó là một trong những loại binh-khí đã được rạng danh trong binh-đội của nghĩa-quân Nhà Tây-Sơn 1788-1802 qua cuộc chiến thắng quân Mãn-Thanh. 3 Yêu Đao M là loại Đao người ta đeo bên hông. Sabre của Âu-Châu và Cận Đông là một loại Yêu Đao gắn lưỡi bản hẹp và cong. Yêu Đao Ngày nay còn có nhiều môn sinh lẫn lộn giữa Đao và Mã Tấu. Đao là một loại Gươm có một bề bén và lưỡi cong thuộc về loại Yêu Đao M . Khi Đao có lưỡi bản rộng thì được gọi là Đại Đao . Hiện nay vẫn còn có người Việt nhầm lẫn gọi Siêu Đao là Đại Đao theo lối các Trường Phái Võ Thuật Trung Hoa thường gọi. Mã Tấu thuộc về loại Trường Đao M có lưỡi bản rộng hơn và cân lượng nặng hơn Đao cán dài khoảng 40 cm tới 60 cm. Đó là loại binh khí phôi thai từ Hổ Đầu Đao . Khi xưa người Trung Hoa dùng loại Đao bản rộng này để đánh trên ngựa nên gọi là Mã Đao M người Việt Nam đọc chệch ra là Mã Tấu về sau này Mã Tấu được sử dụng đánh dưới đất và còn được gọi là Trảm Mã Đao M . Hoàn Đao Bối Đao W Quỷ Đầu Đao M . của Trung Hoa thuộc về loại Mã Tấu. Trảm Mã .