tailieunhanh - CÁC YẾU TỐ TIÊN ĐOÁN KẾT QUẢ NONG VAN HAI LÁ BẰNG BÓNG QUA DA

Mục đích nghiên cứu: tìm các yếu tố tiên đoán kết quả của thủ thuật nong van hai lá bằng bóng qua da. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, phân tích. Kết quả: có 152 bệnh nhân được khảo sát. | CÁC YẾU TỐ TIÊN ĐOÁN KẾT QUẢ NONG VAN HAI LÁ BẰNG BÓNG QUA DA TÓM TẮT Mục đích nghiên cứu tìm các yếu tố tiên đoán kết quả của thủ thuật nong van hai lá bằng bóng qua da. Phương pháp nghiên cứu mô tả phân tích. Kết quả có 152 bệnh nhân được khảo sát. Các yếu tố được khảo sát là tuổi diện tích lỗ van hai lá điểm số Wilkins áp lực động mạch phổi trước nong rung nhĩ. Kết quả như sau tuổi hệ số Fisher 2 84 P 0 094 hệ số tương quan 0 138 P 0 094 diện tích lỗ van trước nong hệ số Fisher 24 93 P 0 000 hệ số tương quan 0 318 P 0 000 điểm số Wilkins hệ số Fisher 0 092 P 0 762 hệ số tương quan 0 30 P 0 762 Ap lực động mạch phổi trước nong hệ số Fisher 0 04 P 0 948 hệ số tương quan 0 006 P 0 948 . Số lượng bệnh nhân có rung nhĩ ít cho nên chưa được phân tích. Kết luận Tuổi điểm số Wilkins từ 4 đến 9 áp lực động mạch phổi không phải là những yếu tố tiên đoán kết quả nong van hai lá bằng bóng qua da. Chỉ có diện tích lổ van hai lá trước khi nong là yếu tố tiên đoán kết quả của nong van. ABSTRACT Purposes Study the predictive factors for early results of percutaneous transvenous mitral commissurotomy PTMC . Methodes descriptive analytic methode. Results There are 152 patients with mitral stenosis under going PTMC. Predictive factors for early results Age Fisher P correlation coefficient P mitral valve orific surface before procedure Fisher P correlation coefficient P Wilkins score Fisher P correlation coefficient P pulmonary artery pressure before procedure Fisher P correlation coefficience P . Conclusions mitral valve orific surface is predictor for early results of PTMC but age Wilkins score from 4 to 9 pulmonary pressure are not. . MỞ ĐẦU Hẹp van hai lá là bệnh lý tương đối thường gặp ở những quốc gia đang phát triển 5 . Đây là bệnh lý trầm trọng ảnh hưởng nặng nề đến khả năng lao động và tính mạng của người bệnh. Điều trị nội khoa chỉ có tính chống đỡ thụ động. Phẫu thuật nong van