tailieunhanh - Mẹ lắc mạnh tay, con bị tổn thương não

- Hành động bế, ru, lắc nhẹ của mẹ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển não bộ của trẻ. Cơ vùng cổ của bé còn yếu nên không đủ sức giữ cho đầu ở vị trí ổn định. Do đó, khi bị lắc mạnh, não của trẻ bị dịch chuyển qua lại với cường độ cao trong hộp sọ, dẫn đến hậu quả tổn thương não và các cấu trúc thần kinh khác. | Trẻ có thể bị tổn thương não nghiêm trọng khi bị lắc mạnh. Ảnh minh họa . Mẹ lắc mạnh tay con bị tổn thương não - Hành động bế ru lắc nhẹ của mẹ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển não bộ của trẻ. Cơ vùng cổ của bé còn yếu nên không đủ sức giữ cho đầu ở vị trí ổn định. Do đó khi bị lắc mạnh não của trẻ bị dịch chuyển qua lại với cường độ cao trong hộp sọ dẫn đến hậu quả tổn thương não và các cấu trúc thần kinh khác. Lứa tuổi thường bị tổn thương não theo cơ chế này là những trẻ sơ sinh hay nhũ nhi trung bình từ 3 - 8 tháng đôi khi xảy ra ở trẻ lớn hơn đến 4 tuổi. Các thương tổn xảy ra tùy theo mức độ nặng của hành động như đứt mạch máu não và các sợi thần kinh xé rách mô não dập não và xuất huyết não. Trẻ có thể tử vong do tổn thương não nặng hay tiến triển lan tỏa. Nếu trẻ sống được thì di chứng thần kinh rất nặng nề có thể bị mù bị điếc co giật động kinh chậm phát triển tâm thần vận động yếu liệt kém thông minh khó khăn trong việc học tập và sử dụng ngôn ngữ mất khả năng tập trung và ghi nhớ. Cha mẹ tuyệt đối không được rung lắc trẻ dù với bất kỳ tư thế nào. Ảnh minh họa Biểu hiện của trẻ khi mới tổn thương - Ngủ gà. - Tăng kích thích. - Nôn ói. - Bú và nuốt kém. - Biếng ăn. - Mất khả năng cười và phát âm. - Cứng đờ. - Co giật. - Khó thở. - Rối loạn ý thức. - Đồng tử không đều. - Mất khả năng nâng đầu. - Mất khả năng nhìn tập trung hay vận động mắt. Những trường hợp nhẹ ban đầu có thể không có biểu hiện nhưng thương tổn vẫn tiếp tục phát triển đôi khi biểu hiện di chứng khi trẻ ở tuổi đến trường. Khi đó khó có thể nhận biết những biểu hiện bất thường đó của trẻ là do não trẻ đã tổn thương trước đó vì bị lắc mạnh. Điều trị và phòng ngừa Những tổn thương này thường để lại di chứng nặng nề nên việc điều trị vô cùng khó khăn và hiệu quả thấp chủ yếu là phục hồi chức năng vận động và một chế độ giáo dục đặc biệt cho trẻ. Những hậu quả nặng nề này hoàn toàn có thể phòng ngừa được chủ yếu là do sự nhận thức của cha mẹ và người chăm sóc trẻ về nguy cơ thương tổn não khi .

TỪ KHÓA LIÊN QUAN