tailieunhanh - Cẩn thận với chỉ số P/E

Việc tính chỉ số P/E đối với cổ phiếu của các doanh nghiệp ở nước ta không thuần tuý chỉ có cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu | Cẩn thận với chỉ số P E Việc tính chỉ số P E đối với cổ phiếu của các doanh nghiệp ở nước ta không thuần tuý chỉ có cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu Chỉ số P E viết tắt theo cụm từ tiếng Anh là Price per Earnings tức là giá cổ phiếu so với lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được khi đầu tư vào cổ phiếu đó. Đối với chỉ số P E theo thông lệ quốc tế khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được chỉ tính đến cổ tức và giá cổ phiếu chênh lệch giữa giá mua và giá bán thì ở nước ta biến số E có độ mở và rất lớn. Thứ nhất đó là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư chứng khoán đầu tư cổ phiếu OTC ở nước ta có được bao gồm cả quyền mua cổ phiếu tăng vốn. Do yêu cầu mở rộng kinh doanh và các quy định về tỷ lệ an toàn quy định pháp luật nên nhiều doanh nghiệp cổ phiếu định kỳ phải phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần công ty chứng khoán cổ phần và công ty bảo hiểm cổ phần. Cổ phiếu phát hành mới theo mệnh giá hoặc theo giá thoả thuận có khoảng cách chênh lệch lớn trên thị trường OTC nên đây là một khoản thu nhập lớn trên mỗi cổ phiếu. Trung tuần tháng 1 2007 khi thông tin Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội- SHB sẽ phát hành cổ phiếu mới với tỷ lệ 1 1 tức là cứ sở hữu 1 cổ phiếu được mua thêm 1 cổ phiếu mới bằng mệnh giá lập tức giá cổ phiếu trên thị trường OTC của SHB tăng từ 2 9 triệu đồng cổ phiếu lên 4 6 triệu đồng cổ phiếu. Thứ hai là các doanh nghiệp chia cổ phiếu cho người đang sở hữu cổ phiếu từ nguồn quỹ thặng dư vốn. Đây mới là hai khoản thu nhập lớn nhất mà nhà đầu tư có được. Cụ thể như Công ty Chứng khoán Sài Gòn SSI bán cổ phần cho một nhóm nhà đầu tư chiến lược là các tập đoàn tài chính lớn của Nhật Bản theo giá thoả thuận phần chênh lệch giá mệnh giá và giá thoả thuận chính người sở hữu hay cổ đông được hưởng. Hoặc VP Bank bán 10 cho tập đoàn ngân hàng OCBC .

TỪ KHÓA LIÊN QUAN