tailieunhanh - Nghiên cứu tình huống - Lạm phát ở Việt Nam

Vốn dĩ là một chủ đề nhạy cảm, không những chỉ là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng mà nó còn gợi lại nỗi ám ảnh giá cả leo thang trong trong quá khứ của Việt Nam. Do vậy, chủ đề lạm phát đã lôi cuốn nhiều chuyên gia kinh tế lẫn nhà chức trách tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp khắc phục. | Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 27 tháng 9 năm 2007 Nghiên cứu tình huống Lạm phát ở Việt Nam1 Trong thập niên 80, có lúc lạm phát ở Việt Nam lên đến 700%2 và đó là nỗi kinh hoàng của người dân. Lạm phát phi mã đó đã được chặn đứng bằng các giải pháp cắt giảm in tiền, tự do hoá kinh tế và điều chỉnh tỷ giá hối đoái trở nên thực tế hơn, người dân không còn tích trữ hàng hoá,vàng, đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng tiền đồng trong nước, xuất khẩu dầu thô tăng3. Trong thập niên 90, tăng trưởng kinh tế trung bình là 7,6% và lạm phát theo chiều hướng giảm dần ở mức tối ưu cho nền kinh tế, thậm chí có lúc nền kinh tế ở trong tình trạng giảm phát, chẳng hạn như năm 2000 (xem hình 1 và 2). Thế nhưng mức giá chung này đột ngột tăng cao kể từ năm 2004 và kéo dài mãi cho đến bây giờ. Nếu so sánh với những nước trong khu vực thì lạm phát của Việt Nam đang cao hơn nhiều nước (xem hình 3). Vốn dĩ là một chủ đề nhạy cảm, không những chỉ là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng mà nó còn gợi lại nỗi ám ảnh giá cả leo thang trong trong quá khứ của Việt Nam. Do vậy, chủ đề lạm phát đã lôi cuốn nhiều chuyên gia kinh tế lẫn nhà chức trách tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp khắc phục. Bối cảnh tăng trưởng kinh tế trong những thập niên qua Có thể nói, tăng trưởng Việt Nam cũng mang tính chu kỳ như bao nền kinh tế khác. Đỉnh điểm của chu kỳ lần thứ nhất là năm 1995, tăng trưởng kinh tế của năm đó cao nhất trong lịch sử tăng trưởng kinh tế của Việt Nam kể từ năm 1986, khi Chính phủ tuyên bố chuyển sang nền kinh tế thị trường. Sự tăng trưởng đó được đóng góp chủ yếu là do tăng trưởng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng sau đó giảm dần và gần như có chiều hướng suy thoái vào năm 1999 (xem hình 4), hai năm sau khủng hoảng kinh tế Đông Á. Khủng hoảng năm 1997 đã làm hầu hết các nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Philipine ngay lập tức rơi vào suy thoái. Song, Việt Nam không phải là quốc gia có tự do hoá trong

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN