tailieunhanh - Hiệu quả của Dual trigger (GnRH antagonist - hCG liều thấp) trên kết cục IVF và dự phòng quá kích buồng trứng ở bệnh nhân đáp ứng cao với kích thích buồng trứng sử dụng phác đồ GnRH antagonist

Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của dual trigger lên kết cục IVF và khả năng dự phòng quá kích buồng trứng của phác đồ dual trigger trên nhóm bệnh nhân đáp ứng cao với kích thích buồng trứng. | Hiệu quả của Dual trigger GnRH antagonist - hCG liều thấp trên kết cục IVF và dự phòng quá kích buồng trứng ở bệnh nhân đáp ứng cao với kích thích buồng trứng sử dụng phác đồ GnRH antagonist LÊ VIẾT NGUYÊN SA LÊ VIỆT HÙNG PHAN CẢNH QUANG THÔNG NGUYỄN PHẠM QUỲNH PHƯƠNG PHỤ KHOA NỘI TIẾT VÔ SINH HIỆU QUẢ CỦA DUAL TRIGGER GNRH AGONIST HCG LIỀU THẤP TRÊN KẾT CỤC IVF VÀ DỰ PHÒNG QUÁ KÍCH BUỒNG TRỨNG Ở BỆNH NHÂN ĐÁP ỨNG CAO VỚI KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG SỬ DỤNG PHÁC ĐỒ GnRH ANTAGONIST Lê Viết Nguyên Sa Lê Việt Hùng Phan Cảnh Quang Thông Nguyễn Phạm Quỳnh Phương Bệnh viện Trung Ương Huế Tóm tắt Giới thiệu Sử dụng hCG truyền thống để khởi động trưởng thành noãn ở những bệnh nhân đáp ứng cao với kích thích buồng trứng tiềm ẩn nguy cơ quá kích buồng trứng. GnRHa trigger có thể gây ra một đỉnh LH đủ để gây trưởng thành noãn và dự phòng được nguy cơ quá kích buồng trứng nhưng lại gây suy hoàng thể bất thường dẫn đến giảm tỉ lệ có thai từ đó đòi hỏi phải có một phác đồ hỗ trợ hoàng thể thích hợp. Một cách tiếp cận mới là sử dụng dual trigger bao gồm GnRHa phối hợp với hCG liều thấp để gây trưởng thành nang noãn hạn chế quá kích buồng trứng nhưng vẫn duy trì được hoạt động hoàng thể để đảm bảo tỉ lệ có thai. Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của dual trigger lên kết cục IVF và khả năng dự phòng quá kích buồng trứng của phác đồ dual trigger trên nhóm bệnh nhân đáp ứng cao với kích thích buồng trứng. Phương pháp nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng trên 124 bệnh nhân đáp ứng cao với KTBT bằng phác đồ GnRH antagonist 10-18 nang noãn đường kính từ 14mm E2 lt 5000 pg mL . 62 bệnh nhân được khởi động trưởng thành noãn với dual trigger và 62 bệnh nhân được khởi động trưởng thành noãn bằng hCG. Các bệnh nhân có nguy cơ cao với QKBT sẽ loại ra khỏi nhóm nghiên cứu. Kết quả Số MII số phôi tốt tỉ lệ thai lâm sàng tỉ lệ thai diễn tiến đều cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm dual trigger so với nhóm hCG. Không một trường hợp QKBT nào ghi nhận ở nhóm dual trigger trong

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN