tailieunhanh - Tình hình chăn nuôi dê ở Lào và mối quan hệ tiêu thụ sản phẩm thịt dê với Việt Nam
Mặc dù số lượng dê sống và nhu cầu về sản phẩm từ dê trên toàn thế giới đã tăng lên nhưng sự tăng trưởng này lại đặc biệt mạnh mẽ ở Lào và Việt Nam. Trong đó, đàn dê ở Việt nam đã tăng gấp ba lầnvà ở Lào đã tăng khoảng 60% trong giai đoạn từ 2004 đến 2014 (FAOSTAT, 2016). Ước tính hiện tại, tổng đàn dê ở Lào có khoảng con (DLF, 2017) và ở Việt Nam có khoảng con (VNIAS, 2016). Các hãng buôn bán dê được coi là mang lại những cơ hội lớn cho nông dân ở các nước này dựa trên cơ sở a) nhu cầu thị trường cao, b) đầu tư vốn thấp, c) ít bệnh tật, d) chúng thích nghi với nhiều loại thức ăn, và e) tỷ lệ phân phối ra thị trường của dê con là cao. Phần lớn dê Lào được xuất khẩu sang Việt Nam, nơi có nhu cầu rất cao và tại đây dê Lào được hưởng lợi thế về giá so với dê cỏ nuôi ở Việt Nam (Hoàng và cộng sự, 2017). Ngành chăn nuôi dê đã hình thành một bộ phận gồm khoảng 10 dự án lớn của quốc tế cũng như quốc gia lớn và nhiều dự án nhỏ tại Lào kể từ cuối những năm 90 (Hergenhan và cộng sự, 2017). Các công việc trước đây thường được địa phương hóa theo khu vực tại Lào và hầu hết các dự án có tập trung hơn vào chăn nuôi gia súc và nông nghiệp với dê là một thành phần của hệ thống. Với sự phát triển gần đây về sản lượng dê thì đã đến lúc ghi nhận hệ thống chăn nuôi dê hiện có ở Lào, chuỗi liên kết tiếp thị vào Việt Nam và xác định các khó khăn, các vấn đề và cơ hội nghiên cứu. | Tình hình chăn nuôi dê ở Lào và mối quan hệ tiêu thụ sản phẩm thịt dê với Việt Nam Chủ đề 1: Thị trường và thương mại khu vực Tình hình chăn nuôi dê ở Lào và mối quan hệ tiêu thụ sản phẩm thịt dê với Việt Nam Phonepaseuth Phengsavanh1, Ammaly Phengvilaysouk1, Phoukham Viengvilai1, Douglas Gray2, Ian Patrick2, Rachelle Hergenhan3, Nam Hoàng4 and Stephen Walkden-Brown3 Cơ quan 1 Viện Nghiên cứu Nông nghiệp và Lâm nghiệp Quốc gia (NAFRI), Ban Nongviengkham, Quận Xaythany, Thủ đô Viêng Chăn, Lào NÚI CƠ HỌI CHO PHÁT TRIỂN 2 Viện Nghiên cứu Tương lai Nông thôn, Đại học New England, Thành phố Armidale, NSW 2351, Australia 3 Đại học Khoa học Môi trường và Nông thôn, Đại học New England, Thành phố Armidale, NSW 2351, Australia 4 Đại học Kinh doanh, Đại học New England, Thành phố Armidale, NSW 2351, Australia Tác giả đại diện swalkden@ 93 Từ khóa Sản xuất dê, tiếp thị dê, chăm sóc sức khỏe dê, hệ thống sản xuất chăn nuôi Giới thiệu Mặc dù số lượng dê sống và nhu cầu về sản phẩm từ dê trên toàn thế giới đã tăng lên nhưng sự tăng trưởng này lại đặc biệt mạnh mẽ ở Lào và Việt Nam. Trong đó, đàn dê ở Việt nam đã tăng gấp ba lầnvà ở Lào đã tăng khoảng 60% trong giai đoạn từ 2004 đến 2014 (FAOSTAT, 2016). Ước tính hiện tại, tổng đàn dê ở Lào có khoảng con (DLF, 2017) và ở Việt Nam có khoảng con (VNIAS, 2016). Các hãng buôn bán dê được coi là mang lại những cơ hội lớn cho nông dân ở các nước này dựa trên cơ sở a) nhu cầu thị trường cao, b) đầu tư vốn thấp, c) ít bệnh tật, d) chúng thích nghi với nhiều loại thức ăn, và e) tỷ lệ phân phối ra thị trường của dê con là cao. Phần lớn dê Lào được xuất khẩu sang Việt Nam, nơi có nhu cầu rất cao và tại đây dê Lào được hưởng lợi thế về giá so với dê cỏ nuôi ở Việt Nam (Hoàng và cộng sự, 2017). Ngành chăn nuôi dê đã hình thành một bộ phận gồm khoảng 10 dự án lớn của quốc tế cũng như quốc gia lớn và nhiều dự án nhỏ tại Lào kể từ cuối những năm 90 .
đang nạp các trang xem trước