tailieunhanh - Nghiên cứu thiết kế quy trình công nghệ hàn tự động sử dụng trong chế tạo tàu vỏ thép, chương 1

Năm 1802, viện sĩ Petrốt phát hiện ra hồ quang điện. Sau đó đến năm 1810, nhà vật lý người Anh là Đêvi đã tiếp tục nghiên cứu về hồ quang và chứng minh khả năng dùng hồ quang điện làm nóng chảy kim loại. Đến năm 1882. Bennađôxơ đã sử dụng hồ quang điện làm nóng chảy kim loại và sử dụng hàn hồ quang bằng cực than. Tiếp sau đó, Slavianốp lại sử dụng hồ quang để hàn bằng que hàn thép và biết bảo vệ vùng hàn chống lại các khí có hại: nitơ,. | CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ HÀN TRONG ĐÓNG TÀU Năm 1802 viện sĩ Petrốt phát hiện ra hồ quang điện. Sau đó đến năm 1810 nhà vật lý người Anh là Đêvi đã tiếp tục nghiên cứu về hồ quang và chứng minh khả năng dùng hồ quang điện làm nóng chảy kim loại. Đến năm 1882. Bennađôxơ đã sử dụng hồ quang điện làm nóng chảy kim loại và sử dụng hàn hồ quang bằng cực than. Tiếp sau đó Slavianốp lại sử dụng hồ quang để hàn bằng que hàn thép và biết bảo vệ vùng hàn chống lại các khí có hại nitơ ôxy. Năm 1907 Kenbbécgơ Thụy Điển đã tìm ra phương pháp ổn định hồ quang và bảo vệ vũng hàn bằng cách bọc que hàn bằng lớp thuốc bọc. Trong một phần tư đầu thế kỷ XX Liên Xô đã chế tạo nồi hơi bằng phương pháp hàn sau đó đến chế tạo tàu thủy và các kết cấu khác. Nhưng trong thời kỳ này hàn hồ quang tay là chủ yếu. Hàn hồ quang tay phát triển người ta đã chế tạo que hàn bằng nhiều loại thép và hợp kim có tính chất khác nhau để hàn các kết cấu kim loại và hợp kim khác nhau. Năm 1928 Alecxanđerơ Mỹ tìm ra phương pháp hàn hồ quang trong khí bảo vệ. Năm 1929 người ta đã tìm ra phương pháp hàn tự động dưới lớp thuốc trong điều kiện thí nghiệm với thuốc hàn sử dụng là hỗn hợp của than gỗ tinh bột mùn cưa và bồ hóng. Hàn tự động ra đời đã tăng được công suất hồ quang bảo vệ được vùng hàn tốt do vậy nâng cao được chất lượng mối hàn và tăng năng suất của quá trình hàn đồng thời cải thiện được điều kiện làm việc cho người thợ hàn. Nhờ vậy mà hàn tự động phát triển một cách nhanh chóng cả về công nghệ và thiết bị. Sau chiến tranh Thế giới thứ hai cùng với hàn tự động dưới lớp thuốc phương pháp hàn trong môi trường khí bảo vệ MIG Metal Inert Gas MAG Metal Active Gas cũng phát triển và nó được sử dụng để hàn một số kim loại có tính hàn kém. Năm 1949 đã ra đời phương pháp hàn nóng chảy đặc biệt -hàn điện xỉ. Hàn điện xỉ ra đời có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công nghệ chế tạo nồi hơi thiết bị cán trục tuốc bin thủy lực cỡ lớn và các sản phẩm cỡ lớn khác. Sau đó hàng loạt