tailieunhanh - Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở sinh viên ngành Y học dự phòng – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết trình bày việc xác định tỷ lệ CLGN kém và các yếu tố liên quan đến CLGN của sinh viên chuyên ngành Y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015. | Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở sinh viên ngành Y học dự phòng – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở SINH VIÊN NGÀNH Y HỌC DỰ PHÒNG – ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Ngọc Trúc Quỳnh*, Kim Xuân Loan*, Mai Thị Thanh Thúy* TÓM TẮT Mở đầu: Chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém sẽ dẫn đến giảm tỉnh táo, thiếu tập trung, gây nên những tai nạn nghề nghiệp, tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính và giảm chất lượng sống. Y văn ghi nhận tỷ lệ CLGN kém ở sinh viên tương đối cao, đặc biệt là sinh viên ngành y. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ CLGN kém và các yếu tố liên quan đến CLGN của sinh viên chuyên ngành Y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 482 sinh viên chuyên ngành Y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh bằng kỹ thuật chọn mẫu toàn bộ. Những đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ hoàn thành bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc bao gồm các thông tin về đặc điểm dân số – kinh tế – xã hội, học tập, thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia, sử dụng các loại thức uống chứa caffeine, áp lực học tập và áp lực tâm lý xã hội. Chỉ báo CLGN Pittsburgh (PSQI) được dùng để đánh giá CLGN. Kiểm định Chi bình phương hoặc Fisher dùng để so sánh tỷ lệ CLGN kém của đối tượng nghiên cứu với các đặc tính khác nhau. Kết quả báo cáo sử dụng tỷ số tỷ lệ hiện mắc (PR) và khoảng tin cậy 95 % (KTC 95%). Mô hình GLM (General Linear Model) đa biến cũng được thực hiện nhằm xác định các yếu tố thực sự có liên quan đến CLGN ở sinh viên. Kết quả: Trong tổng số 482 sinh viên tham gia nghiên cứu, có 285 sinh viên có CLGN kém chiếm 59,1%. Kết quả từ mô hình đa biến cho thấy sinh viên năm thứ năm (PR=0,72; KTC 95%: 0,53 – 0,98) có tỷ lệ CLGN kém thấp hơn so với năm thứ nhất. Tỷ lệ CLGN kém ở sinh viên có kết quả học tập trung
đang nạp các trang xem trước