tailieunhanh - Đánh giá đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân u tuyến yên được điều trị bằng Gamma Knife tại bệnh viện Chợ Rẫy

Bài viết đánh giá đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân u tuyến yên được điều trị bằng Gamma knife tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên 81 bệnh nhân với chẩn đoán xác định u tuyến tuyến yên tái phát hoặc không phẫu thuật được tại đơn vị Gamma Knife, Bệnh viện Chợ Rẫy từ 01 - 2012 đến 12 - 2016. Kết quả: 23 bệnh nhân u tăng nội tiết tố và 58 bệnh nhân u không tăng nội tiết tố. Tuổi trung bình 43,35 ± 11,98, nhỏ nhất 18 tuổi, lớn nhất 73 tuổi. Thể tích u tuyến yên trung bình ± ml. 15 trường hợp tăng tiết PRL và 10 trường hợp u tăng GH. Sau xạ trị, 52 trường hợp (64,2%) u đáp ứng với xạ trị. Thời điểm u bắt đầu giảm kích thước đáp ứng với xạ trị từ tháng thứ 12 sau xạ trị. 2 bệnh nhân tăng kích thước u sau thời gian theo dõi, tỷ lệ kiểm soát u 79/81 (97,5%). 13,3% bệnh nhân và 46,7% bệnh nhân có nồng độ GH về mức bình thường ở tháng thứ 36 và 40 sau xạ trị. | Đánh giá đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân u tuyến yên được điều trị bằng Gamma Knife tại bệnh viện Chợ Rẫy T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2019 ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN U TUYẾN YÊN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG GAMMA KNIFE TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Nguyễn Văn Đô1; Vũ Văn Hòe2 Nguyễn Văn Hưng2; Nguyễn Văn Khôi3 TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân u tuyến yên được điều trị bằng Gamma knife tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên 81 bệnh nhân với chẩn đoán xác định u tuyến tuyến yên tái phát hoặc không phẫu thuật được tại đơn vị Gamma Knife, Bệnh viện Chợ Rẫy từ 01 - 2012 đến 12 - 2016. Kết quả: 23 bệnh nhân u tăng nội tiết tố và 58 bệnh nhân u không tăng nội tiết tố. Tuổi trung bình 43,35 ± 11,98, nhỏ nhất 18 tuổi, lớn nhất 73 tuổi. Thể tích u tuyến yên trung bình ± ml. 15 trường hợp tăng tiết PRL và 10 trường hợp u tăng GH. Sau xạ trị, 52 trường hợp (64,2%) u đáp ứng với xạ trị. Thời điểm u bắt đầu giảm kích thước đáp ứng với xạ trị từ tháng thứ 12 sau xạ trị. 2 bệnh nhân tăng kích thước u sau thời gian theo dõi, tỷ lệ kiểm soát u 79/81 (97,5%). 13,3% bệnh nhân và 46,7% bệnh nhân có nồng độ GH về mức bình thường ở tháng thứ 36 và 40 sau xạ trị. Nồng độPLR về mức bình thường sau xạ trị: 10% bệnh nhân ở tháng thứ 18 và 20% bệnh nhân ở tháng thứ 36. Thời điểm đáp ứng điều trị của nồng độ PRL từ tháng thứ 6 sau xạ trị. 66,7% bệnh nhân biến chứng sau xạ trị. Kết luận: xạ trị u tuyến yên có kết quả tốt, tỷ lệ kiểm soát u cao sau thời gian theo dõi dài. Triệu chứng lâm sàng và nồng độ nội tiết trong máu đáp ứng với điều trị xạ trị. * Từ khoá: U tuyến yên; Xạ trị; Đáp ứng lâm sàng, cận lâm sàng. ĐẶT VẤN ĐỀ khá nhiều khối u không gây triệu chứng, vì thế không được chẩn đoán trong suốt U tuyến yên (UTY) chiếm 10 - 15% các cuộc đời. Trong những năm gần đây, nhờ u nguyên phát trong

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
crossorigin="anonymous">
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.