tailieunhanh - Ứng dụng STENT phủ thuốc trong thực hành lâm sàng

Can thiệp động mạch vành qua da (Percutaneous coronary intervention (PCI) đã trở thành một thủ thuật thường quy trong điều trị bệnh lý động mạch vành (ĐMV) và thường có sử dụng stent. Việc ra đời của biện pháp can thiệp mạch qua da bằng bóng nong năm 1978 đã thực sự mở ra kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh động mạch vành (Percutaneous transluminal coronary angioplasty (PTCA). | Ứng dụng STENT phủ thuốc trong thực hành lâm sàng 68 CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC CHUYEÂN ÑEÀ ÑAØO TAÏO LIEÂN TUÏC Ứng dụng STENT phủ thuốc trong thực hành lâm sàng TS. BS. Phạm Mạnh Hùng MÔÛ ÑAÀU thường xảy ra trong năm đầu tiên và sau đó triệu chứng xuất hiện có lẽ là do sự Can thiệp động mạch vành qua da (Per- phát triển mới của tổn thương chứ không cutaneous coronary intervention (PCI) đã phải do tái hẹp [6]. trở thành một thủ thuật thường quy trong Stent thường (BMS) cũng làm giảm điều trị bệnh lý động mạch vành (ĐMV) đáng kể tỷ lệ các biến cố ngắn hạn, giảm và thường có sử dụng stent. Việc ra đời thời gian nằm viện, hạn chế biến chứng của biện pháp can thiệp mạch qua da bằng tách thành mạch vành (do nong vỡ), tỷ bóng nong năm 1978 đã thực sự mở ra lệ biến chứng nhồi máu cơ tim cấp và kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh động tỷ lệ phải phẫu thuật làm cầu nối cấp mạch vành (Percutaneous transluminal cứu [7,8]. coronary angioplasty (PTCA). Tuy vậy, tỷ Để khắc phục biến chứng tái hẹp trong lệ biến chứng tắc mạch cấp và tái hẹp sau stent động mạch vành, một loạt các biện thủ thuật còn rất cao (tới 50 - 70% có triệu pháp được đề xuất như dùng thuốc toàn chứng đau ngực lại). Do vậy có tới 20 - 30 thân, bơm thuốc tại chỗ, dùng phóng xạ % số bệnh nhân phải can thiệp lại sau 1 Nhưng, hoặc các biện pháp này không mang năm vì tái hẹp, phát triển thêm của tổn lại kết quả hoặc nhiều biến chứng khác. thương [1-3]. Việc ra đời của stent phủ thuốc (Drug- Việc ra đời của stent kim loại (stent eluting stents (DES) đã như cuộc cách thường - bare metal stents (BMS) từ mạng, làm giảm đáng kể tỷ lệ tái hẹp những năm 1984 đã làm giảm đáng kể tỷ trong stent cũng như việc phải tái can lệ tắc mạch cấp ngay sau can thiệp và tái thiệp lại động mạch vành. Nguyên lý hẹp nếu so với nong mạch bằng bóng đơn của DES là vẫn dựa trên cấu trúc stent thuần. Tuy vậy, tỷ lệ bị triệu chứng đau kim loại thông thường, người ta phủ lớp ngực lại vẫn khá cao từ .