tailieunhanh - Cấu trúc sở hữu, hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức, hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết. Kết quả cho thấy các công ty có sở hữu tổ chức cao thì hiệu quả hoạt động cao và giá trị doanh nghiệp cao. | Hướng Tới Hồi Phục TTCKVN Cấu trúc sở hữu, hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam Võ Xuân Vinh Trường Đại học kinh tế Q uan hệ giữa sở hữu tổ chức, hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp là một vấn đề lớn và là một chủ đề thu hút nhiều học giả trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp. Sử dụng các phương pháp hồi quy cho dữ liệu bảng bao gồm hồi quy tác động cố định và GMM, với dữ liệu nghiên cứu là các chỉ số tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh từ 2007 đến 2012, nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức, hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết. Kết quả cho thấy các công ty có sở hữu tổ chức cao thì hiệu quả hoạt động cao và giá trị doanh nghiệp cao. Từ khóa: hiệu quả hoạt động, giá trị doanh nghiệp, sở hữu tổ chức 1. Giới thiệu Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, số lượng các công ty niêm yết tăng dần qua các năm. Cho đến cuối năm 2012, số lượng các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh là 314 doanh nghiệp. Một trong những vấn đề đang được quan tâm từ nhiều bên liên quan, đặc biệt là nhà đầu tư, các nhà lập pháp và các học giả quan tâm là vấn đề cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các nhóm cổ đông khác nhau thì có những quyền lợi và lợi ích khác nhau, có những quan hệ khác nhau với chính phủ, với ngân hàng, với đối tác chiến lược nên cơ cấu sở hữu có ảnh hưởng lớn đến những quyết định của doanh nghiệp và tác động đến hiệu quả hoạt động cũng 28 như giá trị doanh nghiệp khác nhau. Nhiều nghiên cứu xem xét tác động của cơ cấu sở hữu lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tuy nhiên kết quả chưa thống nhất (Belkhir 2009; Fauzi & Locke 2012; Jones, Kalmi & Mygind 2005; La Porta et al. 2000; Lin et al. 2011; Margaritis & Psillaki 2010; Porta, Lopezde-Silanes & Shleifer 1999; Yu 2005). Nghiên cứu gần đây của Rydqvist, Spizman & Strebulaev (2014) cho rằng kể .

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN