tailieunhanh - Kết quả nghiên cứu sinh khối rừng khộp tại Tây Nguyên
Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 loài cây ưu thế của rừng khộp bao gồm Cà chít, Dầu đồng, Dầu trà beng, Cẩm liên, Chiêu liêu ổi và Chiêu liêu đen. Sinh khối cây cá lẻ loài ưu thế trung bình cho tất cả các cấp kính đạt cao nhất ở loài Dầu trà beng (472,34 kg/cây) và Dầu đồng 421,98 kg/cây, Chiêu liêu ổi và Chiêu liêu đen đạt lần lượt là 309,47 kg/cây và 313,72 kg/cây, trong khi giá trị này chỉ đạt 276,52 kg/cây và 299,16 kg/cây tương ứng với loài Cà chít và Cẩm liên. | Tạp chí KHLN 3/2013 (2882 - 2890) ©: Viện KHLNVN-VAFS ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU SINH KHỐI RỪNG KHỘP TẠI TÂY NGUYÊN Vũ Đức Quỳnh Hạt Kiểm lâm Vị Xuyên - Hà Giang TÓM TẮT Từ khóa: Sinh khối, cấu trúc sinh khối, rừng Khộp, Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 loài cây ưu thế của rừng khộp bao gồm Cà chít, Dầu đồng, Dầu trà beng, Cẩm liên, Chiêu liêu ổi và Chiêu liêu đen. Sinh khối cây cá lẻ loài ưu thế trung bình cho tất cả các cấp kính đạt cao nhất ở loài Dầu trà beng (472,34 kg/cây) và Dầu đồng 421,98 kg/cây, Chiêu liêu ổi và Chiêu liêu đen đạt lần lượt là 309,47 kg/cây và 313,72 kg/cây, trong khi giá trị này chỉ đạt 276,52 kg/cây và 299,16 kg/cây tương ứng với loài Cà chít và Cẩm liên. Sinh khối cây cá lẻ tập trung chủ yếu vào phần thân cây (chiếm trung bình 50,0%), cành, rễ và vỏ cây chiếm lần lượt là 17,14%, 15,84% và 13,77%. Sinh khối lá chiếm ít nhất (chỉ chiếm 3,25%). Sinh khối toàn lâm phần được cấu thành từ sinh khối của 4 thành phần chính là tầng cây gỗ (chiếm trung bình 88,72%), cây bụi thảm tươi (3,38%), vật rơi rụng (2,50%) và bộ phận cây gỗ chết (chiếm 5,40%). Tính trung bình chung cho tất cả các trạng thái rừng, tổng sinh khối lâm phần rừng Khộp ở Tây Nguyên đạt 126,71 tấn/ha, trong đó tầng cây gỗ chiếm trung bình 116,26 tấn/ha. The results of research on dry dipterocarp forest biomass in Central Highlands of Vietnam Keywords: Biomass, Biomass structure, Dry dipterocarp forest, Central Highlands commune 2870 Research results show that there are six major species of dry dipterocarp forest including Shorea obtuse, Dipterocarpus tuberculatus, Dipterocarpus obtusifolius, Dipterocarpus obtusifolius, Terminalia corticosa and Terminalia alata. The highest biomass of single tree in average belongs to D. Obtusifolius ( x tree-1), following by D. Tuberculatus ( x tree-1), T. corticosa ( x tree-1) and T. alata ( x tree-1). The figures for S. obtuse and S. siamensis, on the
đang nạp các trang xem trước