tailieunhanh - Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh
Để tạo cho người học một khả năng giao tiếp hữu hiệu trong hoàn cảnh thực thì việc mô tả ngôn ngữ trong chương trình đào tạo cần phải sát với đời sống thực của ngôn ngữ. Bài viết lập luận ủng hộ cho việc đưa khu vực nhạy cảm này vào chương trình đào tạo tiếng Anh ở Việt Nam nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách giữa tiếng Anh trong nhà trường và tiếng Anh trong tình huống thực. | HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 1, pp. 108-125 This paper is available online at NGÔN NGỮ NHẠY CẢM VÀ ĐÀO TẠO TIẾNG ANH Trần Xuân Điệp Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Nội dung cơ bản của Đường hướng giao tiếp đối với dạy ngôn ngữ (CLT) có thể cô đọng lại là: dạy ngôn ngữ không phải chỉ là để giao tiếp mà còn là thông qua giao tiếp. Mặc dù mới chỉ là những phát hiện ban đầu nhưng công trình đã cho 4 nhóm kết quả chủ yếu như sau: 1. Những từ/ ngữ phổ dụng nhưng căn cứ vào tình huống ngữ dụng cụ thể mà mang nghĩa nhạy cảm. 2. Các kí hiệu bằng chữ cái chỉ mức độ tính dục, khỏa thân, bạo hành, và ngôn ngữ tục tĩu trong các loại phim hiện hành ở Hoa Kì. 3. Một danh sách từ tiếng Anh có nghĩa kép, trong đó có một nghĩa nhạy cảm. 4. 6 loại phong cách được dùng để chỉ bộ phận cơ thể và chức năng sinh lí người. Để tạo cho người học một khả năng giao tiếp hữu hiệu trong hoàn cảnh thực thì việc mô tả ngôn ngữ trong chương trình đào tạo cần phải sát với đời sống thực của ngôn ngữ. Bài viết lập luận ủng hộ cho việc đưa khu vực nhạy cảm này vào chương trình đào tạo tiếng Anh ở Việt Nam nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách giữa tiếng Anh trong nhà trường và tiếng Anh trong tình huống thực. Từ khóa: Tiếng Anh nhạy cảm, tiếng Anh cấm kị, đào tạo tiếng Anh. 1. Mở đầu Trong mọi ngôn ngữ đều có một khu vực mà ở đó có những từ hoặc ngữ mang ý nghĩa nhạy cảm. Đó là những từ/ ngữ hay lối nói làm cho người nói lúng túng và làm cho người nghe cảm thấy bị xúc phạm, bực tức hay đánh giá xấu về người nói. Đó là những từ/ ngữ hay lối nói mang tính kì thị (derogatory) chỉ giới tính, dân tộc hay tôn giáo. Cũng có thể, nhất là trong ngôn ngữ thường tục, đó là những từ, ngữ hoặc lối nói chỉ các bộ phận cơ thể, hoạt động tình dục và hoạt động vệ sinh/ sinh lí của con người. Đứng trên bình diện ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ là một thực thể xã hội. Một vấn đề quan trọng của ngôn ngữ
đang nạp các trang xem trước