tailieunhanh - Đa dạng hình thái và phân tử của loài pratylenchus coffeae ký sinh cây cà phê ở Việt Nam

Mục đích nghiên cứu trong báo cáo này cung cấp mức độ đa dạng về số đo, hình thái cũng như phân tử của các quần thể P. coffeae trên cây cà phê và chu ối dại ở Việt Nam, giúp ích cho việc phân loại giống Pratylenchus. | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 4 ĐA DẠNG HÌNH THÁI VÀ PHÂN TỬ CỦA LOÀI PRATYLENCHUS COFFEAE KÝ SINH CÂY CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM TRỊNH QUANG PHÁP, NGUYỄN NGỌC CHÂU Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật WAEYENBERGE L., M. MOENS Viện Nghiên cứu Nông nghiệp và Thủy sản vùng Flanders, Bỉ Pratylenchus coffeae (Zimmermann) Filipjev and Schuurmanns Stekhoven có phân b ố và ký chủ rộng (Siddiqi, 1972; Kaplan & MacGowan, 1982; Castillo & Vovlas, 2007). Rất nhiều nghiên cứu về hình thái, số đo cũng như là đặc trưng phân tử của loài này đã được công bố (Loof, 1960; Corbett & Clark, 1983; Mizukubo, 1992; Duncan et al., 1999; Inserra et al., 2001; Nguyen, 2010). Vì hình thái và s ố đo các quần thể loài P. coffeae khá tương đồng với các loài gần gũi khác như P. loosi, P. pseudocoffeae and P. jaehni, nên việc chẩn đoán chính xác loài này gặp nhiều khó khăn (Inserra et al., 2001). Số đo cũng như hình thái giữa các quần thể của cùng một loài tuyến trùng còn bị ảnh hưởng một phần bởi môi trường, phân bố địa lý (Mizukubo et al., 2003b) và cây ký chủ (Loof, 1960). Kỹ thuật phân tử có thể hữu ích trong việc xác định chính xác loài tuyến trùng (De Waele & Elsen, 2007; Subbotin et al., 2007). Vùng ITS-rDNA thường được sử dụng để xác định các loài trong giống Pratylenchus và dùng cho việc nghiên cứu sự đa dạng quần thể (Duncan et al., 1999; Inserra et al., 2001, 2007). Mục đích nghiên cứu trong báo cáo này cung cấp mức độ đa dạng về số đo, hình thái cũng như phân tử của các quần thể P. coffeae trên cây cà phê và chu ối dại ở Việt Nam, giúp ích cho việc phân loại giống Pratylenchus. I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sáu quần thể tuyến trùng được phân lập từ cây cà phê thuộc miền Trung và Tây Nguyên năm 2006 (Trinh et al., 2009) và một quần thể phân lập từ cây chuối dại ở Madrak (Đắk Lắk) được sử dụng làm quần thể tham khảo, được nhân nuôi trên môi trường mô sẹo cà rốt (O'Bannon & Taylor, 1968). Số đo từ tiêu bản cố định làm theo De Grisse (1969) và được đo qua

TỪ KHÓA LIÊN QUAN