tailieunhanh - Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên
Nghiên cứu 180 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Phòng khám bệnh Bệnh viện A Thái Nguyên, các tác giả thấy: - Tuổi mắc bệnh trung bình là 59,62 11,50; chủ yếu là người trên 60 tuổi (48,89%). Tại phòng khám ngoại trú, tỷ lệ nam, nữ bằng nhau. Người làm ruộng chiếm 57,22% bệnh nhân đái tháo đường. Thời gian mắc bệnh từ 1 - 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (76,67%). | NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN A THÁI NGUYÊN Nguyễn Thị Ngọc Lan*, Bùi Nguyên Kiểm, Trịnh Xuân Tráng Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu 180 bệnh nhân đái tháo đƣờng typ 2 điều trị ngoại trú tại Phòng khám bệnh Bệnh viện A Thái Nguyên, các tác giả thấy: - Tuổi mắc bệnh trung bình là 59,62 11,50; chủ yếu là ngƣời trên 60 tuổi (48,89%). Tại phòng khám ngoại trú, tỷ lệ nam, nữ bằng nhau. Ngƣời làm ruộng chiếm 57,22% bệnh nhân đái tháo đƣờng. Thời gian mắc bệnh từ 1 - 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (76,67%). Đa số bệnh nhân có BMI trung bình: 68,89%. Tỷ lệ bệnh nhân béo phì trung tâm là 42,78%. - Về triệu chứng lâm sàng, tỷ lệ ăn nhiều: 12,22%; uống nhiều 7,20%; gày sút 16,10%; mệt mỏi 23,89%; 77,22% bệnh nhân không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. bệnh nhân có bệnh ở răng miệng 77,22% , biến chứng mắt là 26,82%. - Hàm lƣợng HbA1c trung bình là 6,93 0,98%. Tỷ lệ bệnh nhân có hàm lƣợng HbA1c ở mức tốt và chấp nhận đƣợc đạt 70%. Glucose máu lúc đói trung bình là 7,96 2,43. Tỷ lệ bệnh nhân có mức kiểm soát glucose máu tốt là 14,4%; kém là 67,78%. - Tỷ lệ rối loạn lipid máu: tăng cholesterol là 42,22%; tăng triglycerid 76,67%; giảm HDL-C 2,22%; tăng LDL-C 38,89%. Từ khóa: ĐẶT VẤN ĐỀ* Đái tháo đƣờng là bệnh rối loạn chuyển hoá glucid mạn tính. Bệnh có tốc độ gia tăng nhanh chóng trên thế giới, đặc biệt là ở các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đái tháo đƣờng đã và đang trở thành gánh nặng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội bởi sự phổ biến và hậu quả nặng nề của các biến chứng [3]. Tại Việt Nam, năm 2002, theo điều tra trên phạm vi toàn quốc ở lứa tuổi từ 30 - 64 của Bệnh viện Nội tiết Trung ƣơng, tỷ lệ mắc đái tháo đƣờng chung cho cả nƣớc là 2,7%, ở các thành phố 4,4%, vùng đồng bằng ven biển 2,2% và miền núi 2,1% [3]. Với số lƣợng bệnh nhân lớn và thời gian điều trị cho bệnh nhân bắt buộc phải liên tục suốt đời, cho nên việc điều trị ngoại trú cho ngƣời bệnh .
đang nạp các trang xem trước