tailieunhanh - Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật mở bao sau thủy tinh thể bằng laser yag

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm nhận xét đặc điểm bệnh nhân và đánh giá kết quả ứng dụng phẫu thuật laser YAG mở bao sau tại Bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội. nội dung chi tiết của tài liệu. | TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2014 NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT MỞ BAO SAU THỦY TINH THỂ BẰNG LASER YAG NguyÔn Thanh Hµ* TÓM TẮT Đục bao sau là biến chứng hay gặp, là nguyên nhân chính làm giảm thị lực sau phẫu thuật đục thủy tinh thể (TTT). Phẫu thuật mở bao sau bằng laser YAG tiến hành trên 235 mắt, 182 bệnh nhân (BN), chủ yếu (87,4%) trong độ tuổi ≥ 70. Bệnh toàn thân: tăng huyết áp (32,42%), đái tháo đường (10,44%), tai biến mạch máu não cũ (3,29%), Parkinson (1,1%). Chỉ định laser YAG trong trường hợp đục bao sau độ 3 và 4. Lỗ mở bao sau có đường kính 3 - 4 mm. Năng lượng trung bình mở bao sau đối với dạng đục hạt ngọc trai là 20,08 mJ, xơ hóa 60,08 mJ, dạng phối hợp 60,06 mJ. Kết quả: 42,55% mắt có thị lực ≥ 3/10 và 13,19% mắt ≥ 5/10 trước phẫu thuật, sau phẫu thuật tăng lên 87,66% và 65,96%. Biến chứng: tăng nhãn áp gặp 1 mắt, lỗ mở bao bị lệch tâm 2 mắt. Không gặp trường hợp nào bị biến chứng bong võng mạc, phù hoàng điểm, tổn hại thể thủy tinh nhân tạo, viêm nội nhãn Để hạn chế biến chứng, cần lưu ý: năng lượng laser YAG sử dụng ở mức tối thiểu ( 4 mm và không 4,0 mm [6]. 3. Kết quả thị lực. - Năng lượng: để tránh biến chứng do năng lượng cao gây ra, phẫu thuật laser YAG chỉ sử dụng năng lượng tối thiểu, đủ để mở bao sau đạt kích thước 3 - 4 mm. Bảng 1: Năng lượng laser trung bình để mở bao sau. HÌNH THÁI ĐỤC BAO SAU NĂNG LƯỢNG TRUNG BÌNH Nghiên cứu này Bhargava R Dạng hạt ngọc trai 20,08 mJ (max: 36,0; min: 9,0) 22,80 mJ Dạng xơ hóa 60,08 mJ (max: 80,0; min: 38,4) 80,06 mJ Dạng phối hợp xơ-hạt ngọc trai 60,06 mJ (max: 80,0; min: 38,2) 80,48 mJ Trong nghiên cứu này, năng lượng trung bình dùng để mở bao sau đối với dạng hạt ngọc trai là 20,08 mJ (cao nhất 36,0 mJ và thấp nhất 9,0 mJ), dạng xơ là 60,08 mJ (cao nhất 80,0 mJ và thấp nhất 38,4 mJ) và dạng phối hợp là 60,06 mJ (cao nhất 80,0 mJ và thấp nhất 38,2 mJ). Theo Ari S, năng lượng dùng trong 1 lần mở bao sau phải < 80 mJ, năng lượng cao khó tránh khỏi làm tăng nhãn áp và gây phù .

TỪ KHÓA LIÊN QUAN