tailieunhanh - Khảo sát đột biến kháng thuốc của HBV ở bệnh nhân viêm gan B chưa điều trị đặc trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM

Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định genotype HBV và đột biến kháng thuốc của virus viêm gan B ở bệnh nhân chưa điều trị thuốc kháng virus. Nghiên cứu tiến hành thu thập 65 mẫu huyết thanh ở bệnh nhân sinh sống tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ chưa từng điều trị thuốc kháng virus tới khám ở bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. | Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học KHẢO SÁT ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC CỦA HBV Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B CHƯA ĐIỀU TRỊ ĐẶC TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HCM Cao Minh Nga*,***, Hoàng Tiến Mỹ*, Vũ Thị Ngọc Hà,**, Trần Thiện Toàn***, Cao Hữu Nghĩa**** TÓM TẮT Mở đầu: Tại Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Á, tỉ lệ bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B kháng thuốc kháng virus trong cộng đồng ngày càng cao. Genotype của HBV phổ biến là B và C, genotype C thường có diễn tiến bệnh lý nặng hơn so với B. Các bệnh nhân tới khám và điều trị viêm gan siêu vi B không những cần biết lượng HBV-DNA mà cần quan tâm thêm tới genotype và vấn đề kháng thuốc của HBV để có liệu pháp điều trị hiệu quả. Mục tiêu: Xác định genotype HBV và đột biến kháng thuốc của virus viêm gan B ở bệnh nhân chưa điều trị thuốc kháng virus. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Thu thập 65 mẫu huyết thanh ở bệnh nhân sinh sống tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ chưa từng điều trị thuốc kháng virus tới khám ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Định lượng HBV- DNA thường qui theo phương pháp Real- time PCR theo tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM. Xác định genotype và đột biến kháng thuốc theo phương pháp giải trình tự tại Viện Pasteur TP. HCM. Kết quả: Trong 65 mẫu huyết thanh thu được có 70,8% bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B genotype B, 24,6% bệnh nhân nhiễm HBV genotype C. Chỉ có 16,9% bệnh nhân nhiễm virus có đột biến kháng thuốc. Chúng tôi chỉ xác định được dạng đột biến rtV207M - là dạng đột biến kháng LAM không có ý nghĩa. Các virus kháng thuốc đều thuộc genotype B. Có 3 mẫu huyết thanh không cho kết quả khi giải trình tự chiếm 4,6%. Kết luận: Trên 65 bệnh nhân chưa từng điều trị thuốc kháng virus genotype B chiếm đa số (70,8%), genotype C chiếm tỉ lệ nhỏ hơn (24,6%). Dạng đột biến kháng LAM rtV207M chỉ phát hiện ở các mẫu huyết thanh có virus mang genotype B chiếm 16,9%. Tuy nhiên không có sự liên quan giữa genotype HBV và đột biến kháng thuốc của HBV cũng như với

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG