tailieunhanh - Gây mê tĩnh mạch toàn diện bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong phẫu thuật bụng
Vấn đề và mục tiêu nghiên cứu đặt ra về việc gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích là một kỹ thuật mới, có nhiều ưu điểm được chứng minh trong các nghiên cứu ở nước ngoài. Kỹ thuật này vừa được ứng dụng ở Việt Nam. Vì vậy nghiên cứu với mục tiêu xác định nồng độ propofol tại các giai đoạn gây mê và so sánh hiệu quả của gây mê tĩnh mạch bằng propofol kiểm soát nồng độ đích với phương pháp không kiểm soát nồng độ đích. | Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học GÂY MÊ TĨNH MẠCH TOÀN DIỆN BẰNG PROPOFOL KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH TRONG PHẪU THUẬT BỤNG Châu Thị Mỹ An*, Nguyễn Ngọc Anh**, Nguyễn Văn Chừng*** TÓM TẮT Vấn đề: Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích là một kỹ thuật mới, có nhiều ưu điểm được chứng minh trong các nghiên cứu ở nước ngoài. Kỹ thuật này vừa được ứng dụng ở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định nồng độ Propofol tại các giai đoạn gây mê và so sánh hiệu quả của gây mê tĩnh mạch bằng Propofol kiểm soát nồng độ đích với phương pháp không kiểm soát nồng độ đích. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. 100 bệnh nhân ASA I – III phẫu thuật bụng chương trình dưới gây mê đặt nội khí quản, phân nhóm theo thứ tự vào phòng mổ: nhóm 1 gây mê tĩnh mạch bằng Propofol kiểm soát nồng độ đích “dò liều” với Diprifusor (50 bệnh nhân, khởi mê 2 – 6 mcg/ml, duy trì mê 2 – 8 mcg/ml), nhóm 2 không kiểm soát nồng độ đích (50 BN, tiêm tĩnh mạch 1 – 2 mg/kg, truyền tĩnh mạch 4 – 12 mg/kg/giờ). Kết quả: Nồng độ Propofol khởi mê (3,2 ± 0,6 mcg/ml) và duy trì mê (1,5 – 5,3 mcg/ml) tương đối thấp. So sánh gây mê tĩnh mạch bằng Propofol có và không kiểm soát nồng độ đích: liều khởi mê thấp hơn (1,6 và 2,1 mg/kg, p = 0,001), mất ý thức nhanh (75,5 và 89,1 giây), khởi mê êm dịu (100 và 96%), thay đổi huyết động ít hơn, đặt nội khí quản tốt hơn (96 và 80%), ít cử động trong mổ hơn (2/50 và 9/50, p = 0,03), ít điều chỉnh liều trong mổ (1,5 và 2,2 lần/giờ, p = 0,01), tổng Propofol như nhau (7,8 và 7,2 mg/kg/giờ), thời gian hồi tỉnh ngắn hơn (14,0 và 24,5 giây, p = 0,001) và êm dịu (98 và 90%). Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng Propofol kiểm soát nồng độ đích có thể áp dụng tốt cho phẫu thuật vùng bụng với nồng độ tương đối thấp và chất lượng gây mê tốt. Từ khóa: gây mê tĩnh mạch, kiểm soát nồng độ đích, gây mê đặt nội khí quản, khởi mê, duy trì mê, hồi tỉnh, thời gian mất ý thức, thời gian hồi tỉnh. ABSTRACT PROPOFOL TCI IN GENERAL
đang nạp các trang xem trước