tailieunhanh - Quan niệm của người nông dân về đẻ con trai và đẻ con gái - Đoàn Kim Thắng

Nội dung bài viết "Quan niệm của người nông dân về đẻ con trai và đẻ con gái" tìm hiểu những ảnh hưởng của tập tục đạo đức cũ tới sự phát triển của dân số nông thôn. nội dung bài viết để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu. | Xã hội học số 4 - 1985 QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN VỀ ĐẺ CON TRAI VÀ ĐẺ CON GÁI ĐOÀN KIM THẮNG Ở nông thôn người nông dân hiện vẫn còn bị chi phối nhiều bởi những quan niệm tập tục đạo đức cũ. Trong việc sinh con đẻ cái quan niệm gia đình có nếp có tẻ có trai có gái đã gây cho bản thân người nông dân sự dằn vặt khi không đẻ được con trai như họ mong muốn và gây cho xã hội những khó khăn không nhỏ trong việc thục hiện chính sách dân số mà Đảng và Nhà nước đã ban hành vận động đàn dân thực hiện. Trong phạm vi bài viết này bằng những số liệu cụ thể qua các cuộc điều tra xã hội học gần đây ở vùng đồng bằng Bắc Bộ chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu bước đầu những ảnh hưởng của tập tục đạo đức cũ tới sự phát triển dân sô nông thôn. Cùng vở thành quả của Cách mạng thông Tám và công cuộc giải phóng đất nước những cải cách về kinh tế văn hóa xã hội đã làm thay đổi nhiều mặt trong đời sống nông thôn Việt Nam. Nhiều tập tục cũ mất đi nhường chỗ cho những quan niệm mới lành mạnh đã và đang chi phối cuộc sống ở nông thôn. Nhà nước ta đa quy định quyền bình đẳng nam nữ hôn nhân một vợ một chồng tạo ra những tiền đề căn bản để khẳng định vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên những quan niệm cơ vẫn còn tồn tại dai dẳng ở nhiều nơi nhiều chỗ Nhiều gia đình vẫn băn khoăn dằn vặt khi chưa đủ số con trai con gái như mong muốn. Tâm lý của người nông dân là mong có cả con trai con gái cho vui cửa vui nhà. Đồng thời tâm lý của họ còn bị sức ép nặng nề của dư luận xã hội khiến họ nghĩ rằng nhất thiết phải có đứa con trai. Có thể thấy điều đó qua bảng 1 . Bảng này cho chúng ta thấy khi chưa đủ số trai gái như những người xung quanh mong muốn một bộ phận không nhỏ người được hỏi hỏi thái độ không bình thường. Con số đó lên tới 32 9 đối với nam giới và 48 2 đối với nữ giới . Nếu kể cả một số không ít những người khi được hỏi về vấn đề này không dám nói thẳng thái độ của mình vì làm như thế là trái ngược với nhóm quan niệm đang được pháp luật khẳng định thì con số trên

TỪ KHÓA LIÊN QUAN