Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ những cảm hứng vế đất nước của nhà thơ

A. DÀN BÀI

1. Mở bài

Đất nước là bài thơ ngắn (49 dòng) nhưng lại được sáng tác trong thời gian dài (1948-1955)

- Tiền thân là bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (đăng báo Văn nghệ số 6, tháng 10 và 11/1948) và bài Đêm tinh (Văn nghệ Xuân 1949). Cả hai bài thơ đều được viết tại Việt Bắc, trong tâm trạng nhớ về Hà Nội của tác giả.

- Phần đầu từ Sáng mát trong... Trong biếc nói cười thiết tha được lấy từ bài thơ thứ nhất. Kế đến nối vào đoạn cuối bài thơ thứ hai và cả ý của bài đầu cho đến: Những buổi ngày xưa vọng nói về. Đoạn từ Ôi cánh đồng quê... cho đến hết bài được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1955.

2. Thân bài

- Cảm hứng của bài thơ:

Như tựa đề, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng về giang sơn, gấm vóc, cảm hứng về đất nước, Tổ quốc. Cảm hứng đó xuyên suốt bài thơ, là mạch ngầm kết nối từng mảng tưởng như rời rạc trong tác phẩm, tạo thành hình tượng thơ thống nhất. Do đó, khi phân tích phải luôn tập trung vào chủ đề này.

- Khổ thơ đầu:

Hoài niệm tươi sáng về mùa thu nay. Đây cũng là cảm hứng về một đất nước đổi mới, cảm hứng đầy chất tự hào của người làm chủ. Phát hiện mới rnẻ của Nguyễn Đình Thi ở đây là mối quan hệ về đất nước trong truyền thống - đất nước ở hiện tại.

- Phần còn lại của bài thơ:

Tác giả tập trung thể hiện những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước từ đau thương trong chiến tranh đã trỗi dậy mạnh mẽ, ngời sáng.

3. Kết bài

Đất nước là bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của nền thơ Việt Nam kháng chiến. Thành công lớn nhất của tác giả là đã thể hiện những tình cảm chân thực, xúc động của mình về đất nước.

B. BÀI LÀM

Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”, nhưng Đất nước của Nguyễn Đình Thi không như vậy. Bài thơ được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng diều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được hình thành từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!

Mở đầu bài thơ là những cảm xúc trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian trong quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.

Hương cốm là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội: “Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ... là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ” (Hà Nội băm sáu phố phường).

Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội )cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ... làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành: Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu /... Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội / mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm sữa vỉa hè / thơm bước chân qua...

Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội.

Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng mây bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước” (Nguyễn Đình Thi - Bài thơ Đất nước).

Dòng thơ thứ ba: Tôi nhớ những ngày thu đã xa là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, đây vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.

Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lí, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ.

Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.

Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ớ đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lè mùa thu ấy từ lảu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ.

Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm năng lá rơi dầy.

Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đô khi rút khỏi Hà Nội... Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ. Hình ảnh ấy gần với hình ảnh người ra đi của Thâm Tâm:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng...

- Li khách! Li khách! Con dường nhỏ

Chí lớn không về bàn tay không.

(Tống biệt hành)

Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Người ra đi này cùng không phải tác giả hoặc một người cụ thể - người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng... Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nơi mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc, ngày 4.12.1983).

Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ Đất nước. Có người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng).

Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phấp phới, áo mới). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hòa nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khỏe mạnh và tươi sáng.

Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn.

Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, băng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý: Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực, lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ, trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi từng viết:

Trời xanh ơi hỡi xanh không nói

Hồn ta muốn hiểu chẳng cùng cho.

Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và sự hiểu biết của con người.

Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thông và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất.

Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ. trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hi sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước.

Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về môi quan hệ ấy. Từ Huy Cận:

Cha ông yêu mến thời xưa cũ

Trần trụi đau thương bỗng hóa gần

Những bước mất đi trong thớ gỗ

Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.

(Các vị La Hán chùa Tây Phương)

đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?) Lê Anh Xuân, Thu Bồn... rồi Nguyễn Khoa Điềm trong những năm tháng đánh Mĩ:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...

(Mặt đường khát vọng)

BÀI CÙNG NHÓM