Về bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu

Bạch Đằng giang phú là một bài phú theo lối cổ thể, được tác giả tuân theo đúng qui tắc kết cấu của thể loại. Như Bùi Văn Nguyên đã phân tích, bài phú gồm 6 phần:

a) Lưng, tức phần phá đề

Khách có kẻ... tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Nói: thú ham thích du ngoạn mà cũng là tráng chí của tác giả.

b) Biện nguyên, tức phá thừa đề:

Bên giữa dòng... bồng bềnh mái chèo.

Nói: cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.

c) Thích thực: tả tỉ mỉ cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.

Bát ngát sóng kình... dấu vết luống còn lưu.

Cảnh trên sông Bạch Đằng hùng vĩ nhưng đìu hiu, gợi buồn.

d) Phu diễn, nghĩa là trình bày để minh hoạ thêm ý đoạn trên.

Bên sông bô lão... nghìn xưa ca ngợi.

Các bô lão kể cho tác giả nghe về mảnh đất lịch sử oanh liệt, về trận chiến thắng lẫy lừng của nhà Trần trên sông Bạch Đằng.

e) Nghị luận, tức lời bàn của các bô lão.

Tuy nhiên... nhớ người xưa chừ lệ chan.

Các bô lão nhấn mạnh vai trò của con người, đặc biệt là của Đại vương Trần Hưng Đạo đối với thắng lợi của trận đánh.

f) Kết - phần còn lại của bài phú

Lời tổng luận của các bô lão và kết luận của tác giả.

Tuy nhiên, nếu xét về mạch ý thì bài phú có ba phần chính:

♦ Nhân vật khách cũng chính là cái tôi tác giả.

Mở đầu tác phẩm, nhân vật khách xuất hiện với đặc điểm nổi bật của tính cách: phóng khoáng. Khách rất ham du ngoạn: giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng; sớm thả thuyền ở Nguyên Tương, chiều đã đến thăm Vũ Huyệt, Gót giang hồ đi đã khắp:

Cửu giang, Ngũ hồ Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ.

Nhưng, tráng chí vẫn còn chưa thoả: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

Ở tiểu đoạn này bằng những hình ảnh không gian rộng: biển lớn (giương buồm, giong gió, lướt bể chơi trăng), sông hồ (Ngũ hồ Nguyên Tương), những vùng đất nổi tiếng (Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng); bằng những động từ thể hiện động tác mạnh: thôn (nuốt), quải (treo), thám (thảm); bằng số từ bách, số nhiều, đi liền với cách diễn tả thời gian chuyển tiếp nhanh: sớm, chiều, và cả cách nói khẳng định: Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, tác giả đã khắc hoạ rõ nét tính cách ưa hoạt động, có tráng chí, sôi nổi, ham hiểu biết của khách. Tất cả những điều đó tạo nên sự khác biệt trong những cuộc chơi của khách - một con người hành động, nhập cuộc khác với các cuộc nhàn du của các bậc ẩn sĩ, lánh đời. Những cuộc đi của khách không chỉ để tìm thi liệu mà còn để bổ sung tri thức vì những trang sử nước nhà như một Tử Trường (Tư Mã Thiên).

Trở lên là nói về tráng chí, hoài bão và sự lịch duyệt của khách, phần tiếp theo tác giả sẽ mô tả một cuộc du ngoạn cụ thể: cuộc chơi sông Bạch Đằng. Khác với cách miêu tả ở đoạn trên chủ yếu là tổng quát, ước lệ, không gian, thời gian đã tượng trưng hoá, ở đoạn này tác giả đi vào tả cảnh thực. Đó là: một không gian cụ thể: cửa Đạt Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bãi chiến trường xưa; một thời gian được chỉ định rõ: tháng chín (ba thu) và một phong cảnh cụ thể: nước trời một sắc, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, cùng những dấu vết của chiến trường được diễn tả một cách hình tượng, sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Phong cảnh Bạch Đằng cũng rất to rộng, hoành tráng song ảm đạm tiêu sắt và khách từ tâm trạng phơi phới, tràn đầy hào khí đã bị sự tác động mạnh của hoàn cảnh tỏ ra một tâm hồn phong phú và nhạy cảm: đứng sững, buồn tiếc ngậm ngùi:

Buồn vì thảm cảnh

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Như vậy, ở phần một này nhân vật khách được giới thiệu một cách trang trọng, là một nhân vật được khẳng định. Thực ra đó cũng là sự tự khẳng định tự giới thiệu của chính tác giả: một tâm hồn thơ, một khách hải hồ nhưng đồng thời lại là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.

♦ Trận Bạch Đằng qua sự hồi tưởng của nhân vật tập thể các bô lão.

Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư có ý nghĩa như một cách đặt vấn đề, nêu câu hỏi và dẫn dắt đến sự xuất hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Bằng vài nét phác hoạ tác giả đã gợi cho người đọc hình dung được những đặc điểm quan trọng về nhóm nhân vật này. Đó là một số đông đa dạng về tuổi tác. Có người đã rất già phải chống gậy, có người trẻ hơn, còn khoẻ bơi được thuyền nhỏ, nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Thấy khách đứng lặng giờ lâu, họ hiểu khách có điều đang băn khoăn liền thăm hỏi:

Bên sông bô lão

Hỏi ta sở cầu.

Trương Hán Siêu không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nói chuyện của khách và các bô lão, người đọc có thể hình dung ra chủ đề câu chuyện: các bô lão với tư cách người địa phương và rất có thể nhiều người đã là chứng nhân của trận Bạch Đằng oanh liệt đã dẫn khách thăm nơi chiến địa cũ và thuyết minh cho ông về mảnh đất lịch sử, kể cho ông nghe về chiến công Bạch Đằng buổi Trùng Hưng.

Có kẻ gậy lẽ chống trước

Có người thuyền nhẹ bơi sau.

Vái ta mà thưa rằng:

- Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã

Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.

Với niềm tự hào về quê hương, về lịch sử, các bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh đương khi ấy. Đó là một trận đánh lớn, tầm cỡ, trực diện mặt đối mặt giữa hai đội quân hùng mạnh: Thuyền bè muôn đội Tinh kì phấp phới.

Tì hổ ba quân Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh thư hàng chửa phân.

Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.

Đó cũng là một trận đánh ác liệt; kinh thiên động địa:

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Tính chất ác liệt của trận đánh là do quy mô, lực lượng so sánh, do ý nghĩa trận đánh nhưng mặt khác cũng rất quan trọng là do sự đối đầu về ý chí của hai bên đối phương. Và chính ở trận Bạch Đằng này quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó đã phải đối đầu với một đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ như vậy.

Kìa:

Tất Liệt thế cường

Lưu Cung chước dối

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tổn thất, đến nỗi sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô, đến nỗi bao nhiêu năm sau các nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ:

Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,

Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô

(Trần Minh Tông - Bạch Đằng giang)

Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

Xương bay trống đất máu màng đỏ sông.

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Đổng trụ đến nay rêu phủ biếc;

Đằng giang tự cổ máu còn hồng

(Khuyết danh)

Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó, mà hơn ai hết các bô lão hiểu rằng trận chiến thắng của dân tộc mình, của các bậc anh hùng đương thời là một trận thắng thuộc tầm cỡ những trận đánh lừng danh trong lịch sử, không chỉ đối với một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa đối với một thời:

Khác nào:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên phút giây chết trụi.

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao.

Muôn đời ca ngợi.

♦ Bình luận về chiến thắng sông Bạch Đằng.

Theo binh pháp cổ, muốn thắng lợi trong chiến tranh cần phải có ba nhân tố cơ bản: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, nghĩa là được thời của trời (hợp, đúng thời cơ), được lợi thế của đất và được sự đồng lòng của người. Ở đây cũng trên những nguyên tắc chung đó nhưng các bô lão chỉ rút lại có hai nhân tố: sự trợ giúp của trời và tài năng của người chèo lái cuộc chiến. Sự trợ giúp của trời được thể hiện ở hai điểm quan trọng: Trời cũng chiều người và Trời cho nơi đất hiểm. Thiên Thái thề trong Kinh thư, một kinh điển quan trọng của nho gia, có câu: Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tắc lòng chi nghĩa là: Trời thương dân, điều dân muốn, trời sẽ theo). Như vậy trận đánh trên sông Bạch Đằng, nói rộng ra là cả cuộc kháng chiến chống quân Nguyễn đã được sự trợ giúp của trời, cũng có nghĩa là nó đã bao gồm được cả ba nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Tuy nhiên, ở đây các bô lão còn nhấn mạnh thêm vai trò của con người, những người có tài, những nhân vật xuất chúng, đủ sức đảm đương gánh nặng mà đất nước giao phó. Đó là các bậc sánh với Vương sư họ Lã trong hội Mạnh Tân, với Quốc sĩ họ Hàn trong trận Duy Thuỷ và đặc biệt là Đại vương Trần Quốc Tuấn, một người có tài thao lược nhất là có tầm nhìn chiến lược muôn đời ngợi ca:

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm đồn mãi,

Bia miệng không mòn.

Trong cuộc chơi sông Bạch Đằng hôm ấy, Trương Hán Siêu đã dựng nên hai khung cảnh ở hai thời gian khác nhau. Cảnh thứ nhất là Bạch Đằng lúc đương đại; thiên nhiên vẫn hùng tráng, vẫn đẹp như từ có vũ trụ song đôi với thế tình nó như đã nhuốm mùi dâu bể, như đã bị lãng quên, khiến cho một tâm hồn thơ như khách phải ngậm ngùi. Bạch Đằng đương đại là một cảnh sắc đậm tính trữ tình, đậm chất thơ. Cảnh thứ hai là một Bạch Đằng trong lịch sử, nó đã được sống dậy trong sự hồi tưởng của các bô lão, rất đậm tính chất anh hùng ca. Tuy nhiên, sau khi làm sống lại quá khứ say sưa và bình luận về quá khứ, những người ngày nay cũng đều phải trở về với thời đại và cương vị của mình. Cũng như khách, kết thúc những lời kể, các bô lão bộc lộ tâm trạng, tình cảm:

Hoài cổ nhân hề vẫn thế.

Lâm giang lưu hề hậu nhan.

Các bản dịch xưa nay đều coi hai chữ hậu nhan có nghĩa là rầu rầu nét mặt, nên nói chung thường dịch là:

Đến (hoặc khách) chơi sông chừ ủ mặt,

Nhớ người xưa (hoặc người hoài cổ) chừ lệ chan.

Song hai chữ hậu nhan có nghĩa gốc là đầy mặt, diễn tả trạng thái xấu hổ, thẹn thùng, vậy thì đúng ra hai câu trên phải được dịch là:

Đến chơi sông chừ hổ thẹn

Nhớ người xưa chừ lệ chan.

Với tư cách là những người trong cuộc hoặc chứng nhân của mảnh đất lịch sử anh hùng này các bậc bô lão thấy đau xót, hổ thẹn khi nó bị bỏ rơi đến nỗi dấu tích hào kiệt trở thành hoang phế, mộ phần người bỏ mình cho sự sống còn của dân tộc đã bị lẫn lộn trong đám cốt khô đầy gò. Và hổ thẹn cũng có thể còn vì một lí do nữa, đó là nghĩ đến trách nhiệm kế nghiệp của mình với cha anh, những bậc anh hùng thời trước.

Cuộc chơi sông Bạch Đằng kết thúc, thực chất là sự trình bày về dòng sông lịch sử đã hoàn tất, bài phú được kết thúc bằng hai lời ca và thực sự đó là lời tổng luận của các bô lão và của khách. Nếu như các bô lão, người dân bình thường, nhân mạnh một lẽ đời mang tính chất quy luật, như nước sông cuồn cuộn chảy về biển cả, đó là:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Thì khách, một thi nhân, một con người lịch duyệt và cũng là một phương diện quốc gia đã bổ sung thêm vai trò của hai vị thánh quân, nhấn mạnh đến cái đức cao mà một vị vua phải có để đem lại muôn thuở thanh bình cho trăm họ và cho hoàng tộc. Hơn thế nữa trong quan niệm của khách, đức cao mới thực sự là điều kiện quyết định:

Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ý đức chi mạc kình.

(Đúng là: chẳng tại non sông hiểm trở, chỉ tại đức cao không gì so sánh được).

Trong những áng thơ văn viết về trận thuỷ chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu là tác phẩm sớm nhất và cũng là một áng văn không tiền khoáng hậu. Sử dụng tính chất khoa trương của thể phú kết hợp với chất trữ tình của thơ, đặt trong kết cấu phú cổ thể có pha đối thoại và liên ngâm, tác giả đã chuyên chở những ý tình của mình một cách rất sinh động. Có lẽ cũng không có mấy tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca lại được hoà quyện nhuần nhuyễn và tinh tế đến như Bạch Đằng giang phú. Quả là đúng như sự đánh giá của Bùi Văn Nguyên: Bạch Đằng giang phú đã khắc hoạ một cảnh trí mĩ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước, là một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học đời Trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.

BÀI CÙNG NHÓM