Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Giáo trình phân tích khả năng ứng dụng kiểu dữ liệu sơ cấp trong ngôn ngữ lập trình p4
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Tham khảo tài liệu 'giáo trình phân tích khả năng ứng dụng kiểu dữ liệu sơ cấp trong ngôn ngữ lập trình p4', công nghệ thông tin, kỹ thuật lập trình phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Chương II Kiểu dữ li Ngôn ngữ lập trình được chia làm hai loại ngôn ngữ khai báo trong đó các ĐTDL phải được khai báo trước khi sử dụng và ngôn ngữ không khai báo trong đó ĐTDL có thể sử dụng mà không cần phải khai báo. Với ngôn ngữ khai báo ĐTDL sau khi đã khai báo phải sử dụng đúng như nó đã được khai báo trong khi đối với ngôn ngữ không khai báo một ĐTDL có thể sử dụng một cách tuỳ thích. Đây là một trong những lý do làm cho ngôn ngữ không khai báo trở nên mềm dẻo hon. 2.5.2 Mục đích của sự khai báo Việc khai báo có các mục đích quan trọng sau Chọn một tổ chức lưu trữ tốt nhất cho ĐTDL. Chẳng hạn trong ngôn ngữ Pascal để lưu trữ ngày trong tháng ta có thể khai báo biến ngay có kiểu là integer được lưu trữ trong bộ nhớ bởi 2 byte. Tuy nhiên trong một tháng chỉ có tối đa 31 ngày nên ta có thể khai báo biến ngay có kiểu miền con 1.31 được lưu trữ trong bộ nhớ chỉ với 1 byte. Quản lý bộ nhớ Sự khai báo cho phép xác định thời gian tồn tại của ĐTDL mà các chưong trình quản lý bộ nhớ sử dụng để cấp phát và giải phóng bộ nhớ cho ĐTDL. Các phép toán chung. Hầu hết các ngôn ngữ đều dùng các ký hiệu đặc biệt như để chỉ một phép toán nào đó phụ thuộc vào kiểu dữ liệu của đối số. Ví dụ trong Pascal A B có nghĩa là phép cọng các số nguyên nếu A và B thuộc kiểu Integer phép cọng các số thực nếu A và B thuộc kiểu real và là phép hợp nếu A và B thuộc kiểu tập hợp. Các phép toán như thế được gọi là các phép toán chung bởi vì nó không chỉ rõ một phép toán nhất định nào. Sự khai báo cho phép bộ dịch xác định một phép toán cụ thể được chỉ định bởi ký hiệu phép toán chung. Ví dụ trong Pascal từ sự khai báo hai biến A và B trình biên dịch sẽ xác định được phép toán cụ thể trong ba phép toán theo đó nếu A B là các biến integer thì A B là phép cộng hai số nguyên nếu A B là hai biến real thì A B là phép cộng hai số thực. Ngược lại trong SNOBOL4 vì không có khai báo kiểu cho biến nên sự xác định phép nào để thực hiện phải được làm tại thời điểm mà một phép bị bắt gặp trong quá trình thực